Monday 21 April 2008

MỪNG THÁNH CẢ GIUSE

Lâm Võ Hoàng

Nỗi tiếc đời tôi là không thuộc đạo dòng, để sách bổn dạy sao tôi tin vậy, cha cố dì phước bảo sao, tôi nghe vậy, như thuở nhỏ mẹ cho gì tôi ăn nấy, thậm chí còn coi đó là ngon nhứt. Tôi theo Chúa Giêsu Kitô như gái theo trai, bất kê cha mẹ gia đình. Tôi vì “yêu” mà tin “trọn gói”. Rồi với thời gian đầu óc lý sự mới bắt đầu thấy có vấn nạn, trong cách trình bày một số nội dung Tin mừng.

Từ đó, tôi không ngớt tự tìm ra cách giải thích hợp lý nhất, đê làm “gá đỡ” cho đức tin của mình. Chẳng hạn, như Thánh cả Giuse được trình bày như người chồng hững hờ của Đức Mẹ Maria, người cha gượng gạo của Đức Giêsu Kitô, thậm chí như một ông lão ngậm ngùi, râu tóc bạc phơ, làm như thê Đức Nữ Trinh xấu xí, tật nguyền, hư hèn gì, mà phải gả bán vội vã, lúc mới 16 tuổi, cho một người đáng tuổi... ông nội ? Khiến cho Thánh gia, thay vì đầy tiếng cười ấm áp của đôi vợ chồng trẻ nựng nịu Bé thơ, trở thành một gia đình âm u, nhạt nhẽo, buồn tênh ! Tôi không thê tin như vậy. Vì tôi quan niệm Thánh gia phải hạnh phúc nhứt trần gian.

Qua bài này, tôi xin phép được trình bày một số suy nghĩ độc lập nhằm nâng cao tỏ rõ những giá trị nhân bản tuyệt vời đã giúp hai Đấng, đặc biệt Thánh cả Giuse, dành trọn cuộc đời mình cộng tác trực tiếp vào công trình Cứu chuộc, bằng cách nhận lời Chúa Cha, giúp Ngôi-Lời-Nhập-Thê được Giáng sinh làm người và thuộc miêu duệ của vua Đavít và con-người-của-Ngôi-Lời-nhập-thê được giáo dục nên người công dân Do Thái hoàn chỉnh, lảu thông Lề luật Mô-sê nắm vững Kinh Thánh Tô-ra, sành sỏi lê chế nghi thức, tóm lại, thấm nhuần Truyền thống lịch sử Cứu Độ truyền tử lưu tôn trong Dân được chọn...

Đây là nhiệm vụ cực thánh cực trọng mà Chúa Cha giao trực tiếp, riêng rẽ qua hai lần phổ biến quán triệt của Thiên sứ, cho từng Đấng. Cho nên hai Ngài không chỉ được thánh hóa, mà trở nên thánh một cách trọn vẹn và cuộc đời của hai Ngài là một hiến tế thường xuyên mà hai Ngài vừa là chủ tế không tì vết, vừa là vật tế tinh tuyền dâng tiến lên Thiên Chúa Cứu độ và Toàn năng, như của lê toàn thiêu trên bàn thờ nhiệm vụ.

Như vậy đâu có gì lạ lẫm, không bình thường, thậm chí phi thường, khi hai người trẻ, có ý chí mạnh, đức tin vững, có giáo dục đạo đức, nội tâm phong phú, nếp sống thanh sạch, chất phác, đơn sơ, ý thức trách nhiệm cao..., một khi đã thông suốt và quán triệt nhiệm vụ không dê dàng chút nào, lại biết tỏ ra khôn ngoan đặc biệt, là nhất trí đồng thuận giữ sự đồng trinh trong bậc vợ chồng, không phải chỉ trong thời gian chờ Chúa Giêsu ra đời, mà còn suốt đời ?

Họ tự giác tự nguyện hành động như thế, trước hết đê kính tôn Con họ là Đấng Thánh và sự thánh của nhiệm vụ và nhân thân họ; kế đến đê toàn tâm toàn ý, toàn lực, dấn thân hoàn thành nhiệm vụ mà họ say mê, coi như là ân huệ, hạnh phúc nhứt đời họ; cuối cùng, đê tránh những lục đục, oán hận, hụt hẫng mà ái ân không hòa hợp thường gây cho nhiều vợ chồng đời thường và ngược lại, đê trong quan hệ thanh sạch giữa vợ chồng đồng trinh, củng cố, nâng cao tình yêu nhau vốn có giữa họ lòng tôn trọng tương kính nhau, từ đó cậy trông, nương tựa nhau, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ.

Gay go hơn, họ phải giữ kín nhiệm quan hệ đặc biệt của họ, kê cả với cha mẹ. Vì nếu bí mật kia được phát hiện trước ngày giờ, thì nhiều hậu quả nghiêm trọng khôn lường sẽ xảy ra và ảnh hưởng tai hại đến công việc và sứ mạng của Đấng Cứu Thế. Dovậy, cuộc sống chung của họ phải hết sức tự nhiên, đê cặp mắt soi mói nhất cũng không thê nghi ngờ bất cứ chuyện không bình thường nào trong hôn nhân này.

Yêu cầu trên đây xét ra không khó khăn đặc biệt đối với Maria và Giuse. Chưa kê những đặc sủng mà Ba Ngôi Thiên Chúa, đặc biệt Chúa Con, ban rưới dồi dào trên các Ngài, ý chí, đạo tâm, đức hạnh, ý thức thánh thiêng đã giúp các Ngài giữ vẹn lời phát nguyện khiết trinh trong quan hệ sống chung đời thường như các vợ chồng khác, cho tới khi Thánh cả Giuse qua đời.

Bí mật trên chỉ được hiêu ra và xác nhận sau ngày trọng đại Chúa Thánh Thần hiên xuống soi tỏ mọi điều cho các tông đồ. Vì nếu được phát hiện khi Chúa Giêsu còn sinh tiền, thì người Do Thái sẽ dê dàng qui chụp Người không những không thuộc miêu duệ vua Đavít mà còn là con không cha, tội lỗi ô uế, biết đâu chừng ngay cả đối với một số tông đồ chưa vững vàng của Người.

Trên đây là những điều xác tín của tôi đê di dưỡng lòng sùng kính đặc biệt của tôi đối với thánh Giuse, một bậc trượng phu quân tử thanh khiết, từ tâm, hào hiệp, dũng cảm, vị tha, chung thủy. Về mặt cá nhân, đây là một chàng trai trên 20 tuổi, ít nói, có ý chí sắt đá, thông minh sắc sảo, khôn ngoan thâm trầm, nghe là hiêu, tính là làm, làm dứt khoát không do dự, hồ nghi, trong mọi tình huống đều tỉnh táo quyết đoán, gặp nghịch cảnh thì nhẫn nhục chịu đựng, trên hết có đời sống nội tâm chiêm niệm, giữ đạo nghiêm túc, rõ ràng xứng đáng làm cha dưới thế, người rèn dạy mẫu mực Chúa Giêsu từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.

Tất nhiên là chàng thu hút sự mến mộ của các cô gái Nadarét, nhưng do duyên tiền định từ muôn kiếp, chàng chỉ thốt tiếng “yêu” duy nhất trong đời với Maria, khiến cho nàng cúi mặt làm thinh, mở đường cho chàng cậy nhờ người cầu hôn giùm và được đính hôn cùng nàng. Cho tới một buổi sáng kia, Maria bỗng gặp Thiên sứ truyền tin cho nàng, như trong cơn mơ. Tuy đã “xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Thiên sứ nói”, nhưng cụ thê như thế nào, làm sao nàng biết được ?

Chỉ nghe nói bà chị già hiếm muộn nay đã mang thai đươc sáu tháng, nàng liền xin cha mẹ cho phép xuống Giuđêa, trước thăm, sau giúp đỡ chị lúc sinh nở. Sau gần bốn tháng xa cách, Giuse chết điếng thấy “vợ” hớn hở trở về với cái bụng bắt đầu thè lè. Là con người hành động chín chắn, chàng cầu nguyện nhiều ngày và thận trọng tính bước đi. Từ tâm, chàng không thê tố giác, đưa hai mẹ con nàng đến cái chết bị ném đá. Dù vẫn yêu tha thiết, chàng không thê sống chung với bào thai chình ình, như trêu ngươi.

Thế là chàng vội vã sắm lê vật đến nhà ông bà nhạc phụ đê thú phạt và xin rước dâu sáng sớm hôm sau. Nhưng khuya hôm đó, chàng sẽ “quất ngựa truy phong” biến mất trong cõi mịt mùng, đê lại phía sau lời nguyền rủa “đồ bạc tình, phản bội !”. Dè đâu trong giấc ngủ say nồng vì mỏi mê, chàng được Thiên sứ báo mộng. Tỉnh giấc, Giuse liền nhớ lại mọi câu chuyện và hiêu hết mọi nguồn cơn.

Trong loan phòng, chàng dìu Maria ngồi lên giường, rồi sấp mình hôn chân nàng. Maria hoảng hốt tuột xuống đất lạy trả, rồi khóc và kê chuyện. Chàng ôm vai an ủi vợ : “Anh biết hết rồi, em đừng khóc nữa” và kê lại cơn bão táp trong lòng chàng và giấc mộng hôm qua, rồi đề nghị :

“Rõ ràng Đấng Toàn năng đã đoái thương nhìn đến phận hèn mọn và đã làm cho chúng ta biết bao điều cao cả. Đức Chúa đã sai Đấng Cứu Tinh Ixraen xuống thế làm người và làm Con chúng ta. Bởi em là Mẹ Đấng Thánh, tức là Mẹ của anh, thà chết, chớ anh không bao giờ dám phạm thánh. Vậy anh mong em thông cảm thuận tình cho vợ chồng chúng ta tiếp tục giữ đồng trinh suốt đời, đê làm hiến lê mừng Con chúng ta, mà anh xin xác nhận là đứa con mà anh hằng muốn có với em và hôm nay đã có với em, Bằng tình yêu và ao ước tột cùng, như em đã biết, hôm nay anh đã sinh ra con trong miêu duệ của tổ tiên anh là vua Đavít. Như vậy, anh sẽ là cha đích thực của con, như anh đã được Đức Chúa Cha trên trời “tấn phong”, khi trao ban cho anh quyền đặt tên cho Con là Giêsu. Ngoài việc cùng em nuôi dưỡng, anh sẽ giáo dục con thành “người công chính” của Ixraen”.

Năm tháng sau, có chiếu chỉ tổng kiêm tra dân số, Giuse bèn đưa Maria về thành Bêlem, nơi phát tích của nhà Đavít, đê đăng ký. Lúc đó Maria đã gần đến ngày lâm bồn, không nhà trọ nào chịu chứa, sợ ô uế xúi quảy. Giuse phải đưa vợ tạm nghỉ trong một hang đá vắng vẻ ngoài thành, nơi trú ẩn qua đêm đông giá của chiên, bò, lừa. Nửa đêm, Maria trở dạ. Biết chồng đang bối rồi, Maria thản nhiên căn dặn chồng những việc cần làm đê giúp đỡ nàng “vượt cạn”.

Nhìn Hài nhi mong manh trong bọc tả nằm bên mẹ, Giuse sấp mình thờ lạy, run rẩy trước nhiệm vụ quá sức nặng nề, như người cầm bảo vật trong tay mà leo núi vách đá. Không phải chàng quá lo xa ! Hài nhi vẫn còn đỏ hỏn mà Thiên sứ đã báo mộng cho chàng mau đem mẹ con Hài nhi trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài nhi và ở đó cho tới khi được báo lại là hôn quân đã từ trần, mới trở về. Tá túc và kiếm sống trong nước địch thù truyền thống, giữa đám dân xa lạ ác cảm lâu đời, quả thật chua cay ! Dẫu vậy, mỗi khi nhớ lại vì Ai mà phải trầy vi tróc vảy, Giuse như uống nước cam lồ, lòng liền phấn khởi như hồi mới gặp Maria.

Sau đó là những năm dài sống hạnh phúc gia đình tuyệt vời bên vợ đảm con ngoan, cảnh nhà bớt cực khổ, có sắm sanh chút đỉnh cho vợ bớt thua chị em, chúng bạn. Tiếng thơm gia đình đạo đức bay khắp nơi. Ai có chuyên khó khăn gì chạy đến nhờ giúp đỡ, đều được toại nguyện. Đám anh em con bạn dì của Giêsu, thường xẩn bẩn, đeo dính má Maria và ăn ngủ ở bên nhà Giêsu nhiều hơn ở bên nhà chúng, riết rồi ai cũng coi là con của Maria.

Trong một dịp, lúc Giêsu được 12 tuổi, gia đình lên Giêrusalem trẩy hội mừng lê Vượt Qua. Lúc trở về chung với đoàn lữ hành sau một ngày đường, Giuse và Maria mới nhận thấy Giêsu không có ở trong đoàn. Đây là cú sốc lớn nhất trong đời Giuse. Làm sao ăn nói với Maria, vì Giêsu, càng lớn khôn, càng quấn quít bên cha, đê nghe cha dạy đủ điều ? Chàng quyết định cùng Maria quay trở lại Giêrusalem, Giuse bước vào đền Thánh, thấy Giêsu đang ngồi chính giữa các bậc thượng phẩm Do Thái, trả lời rành rẽ các câu hỏi hóc búa của họ. Trong khi Giuse khoan khoái tự hào về Con, Maria nửa mừng nửa tủi, lần đầu tiên lên tiếng trách móc Con và Con, lần đầu tiên, đáp trả bí hiêm : “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?”.

Trở về Nadaret, Giêsu hằng vâng phục mẹ cha. Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng và suy đi nghĩ lại. Còn Giuse thì cảm nhận con mình đã chớm mọc lông cánh rồi, không biết chừng nào rời ổ, bay đi làm nhiệm vụ, đê lại thương nhớ khôn nguôi trong lòng chàng? Phụ tử thâm tình, chắc Con đã thấu ?

Vừa khắc khoải sợ mất Con, vừa lo âu khi thấy Con vẫn ở hoài trong xưởng mộc, cho tới nay đã gần “tam thập nhi lập”, lại bức rức nghe con rút vào chỗ kín, thì thầm với Ai trong cõi vô hình, Giuse trực giác mọi việc - Không ! chỉ giai đoạn chuẩn bị thôi ! sắp hoàn tất, cũng như vai trò của chàng. Bỗng một đêm kia, chàng khát nước, không ngồi dậy nỗi, gọi vợ con cũng không ra tiếng. Chàng đã hiêu và cố gắng dọn mình dâng về Đấng đã ủy nhiệm chàng.

Trong cơn mơ, chàng thấy Cửa Trời rộng mở, vị Thiên sứ năm xưa mỉm cười trao cho chàng bó hồng Thiên quốc : “Đức Chúa là Thiên Chúa của Ixraen, là Cha của Đấng Thánh cứu chuộc Dân Người, đang chờ anh !”. Liền đó, Mô-sê bước lại cầm tay : “Lão chờ hiền đệ từ lâu rồi trên đỉnh Nê-bô, đê cùng nhau, từ bờ Giô-đan bên này nhìn sang bờ Giô-đan bên kia, xem Đất Hứa mà chúng ta qua không tới”. Bỗng Gioan Tiền hô xuất hiện chạy tung tăng cầm đầu đoàn hùng binh các Thánh Tử đạo, vừa diêu hành qua trước mặt chàng, vừa tung hô : “Người phải nổi bật lên, còn Anh và Ta phải lu mờ đi !”. Tỉnh giấc, chàng thấy Maria và Giêsu đang rờ trán bóp tay cho chàng. Nở nụ cười đằm thắm, chàng giơ tay nắm hai bàn tay của vợ và con áp lên ngực, nhìn Maria: “Anh đi !” và Giêsu : “Con hãy lên đường !”. Amen.

Công Giáo và Dân Tộc Số 1200, Ngày 19.3.1999

No comments: